Bệnh Dại Ở Chó Mèo Và Các Thông Tin Dịch Tễ Quan Trọng Với Con Người – Phần I
- Người viết: Pet Health lúc
- Kiến Thức
I. Tầm quan trọng Bệnh dại ở chó mèo
Bệnh dại là một bệnh thần kinh của động vật có vú, hầu như luôn gây tử vong một khi các dấu hiệu lâm sàng phát triển. Con người thường bị nhiễm bệnh khi bị động vật nhiễm bệnh cắn hoặc tiếp xúc với nước bọt hoặc các mô của hệ thần kinh trung ương (CNS).
Bệnh Dại có thể được điều trị hiệu quả nếu sự phơi nhiễm được nhận biết trước khi các triệu chứng phát triển.
Con người thường bị nhiễm bệnh dại khi bị động vật cắn
II. Nguyên nhân gây ra Bệnh Dại ở chó mèo
Bệnh Dại là kết quả của việc nhiễm Virus Dại, một loại virus hướng thần kinh thuộc giống Lyssavirus, họ Rhabdoviridae. Có nhiều chủng Virus bệnh Dại; mỗi chủng được duy trì trong các vật chủ trung gian cụ thể. Mặc dù những Virus này có thể dễ dàng gây ra bệnh Dại ở các loài khác, nhưng chúng thường chết trong quá trình di chuyển nối tiếp ở những loài mà chúng không thích nghi.
Các Lyssavirus có liên quan mật thiết với nhau, bao gồm Lyssavirus liên quan đến bệnh Dại và Lyssavirus không liên quan đến bệnh Dại, có thể gây ra một bệnh thần kinh giống với bệnh Dại.
III. Quá trình lây truyền Bệnh dại ở chó mèo
Virus bệnh dại rất dễ lây truyền giữa các loài động vật có vú, cho dù chúng cùng loài hay khác loài. Virus này thường lây lan trong nước bọt, khi một con vật bị nhiễm bệnh cắn một con khác.
Ít thường xuyên hơn nhưng vẫn có khả năng động vật hoặc người bị nhiễm bệnh do tiếp xúc với nước bọt hoặc các mô thần kinh đã bị nhiễm bệnh, mầm bệnh qua màng nhầy hoặc vết rách trên da. Virus dại không lây truyền qua da còn nguyên vẹn.
Cũng có những báo cáo hiếm hoi về việc lây truyền qua các đường khác. Một số trường hợp đã được báo cáo sau khi cấy ghép các cơ quan, đặc biệt là giác mạc, tuyến tụy, thận và gan.
Có thể bạn quan tâm: Chó bị xuất huyết đường ruột
1. Quá trình truyền của Virus Dại trong cơ thể
Ngay sau khi nhiễm bệnh, Virus Dại bước vào giai đoạn ẩn náu, khi đó nó không dễ dàng phát hiện được. Trong giai đoạn này, nó tái tạo trong mô phi thần kinh như cơ bắp. Nó thường không kích thích miễn dịch phản ứng tại thời điểm này, nhưng nó dễ bị trung hòa nếu có kháng thể.
Sau vài ngày hoặc vài tháng, virus xâm nhập vào các dây thần kinh ngoại vi và được vận chuyển đến hệ thần kinh trung ương bằng dòng chảy ngược trong sợi trục.
Sau khi tăng số lượng khắp hệ thần kinh trung ương, nơi các dấu hiệu lâm sàng phát triển khi các tế bào thần kinh bị nhiễm, virus được phân phối đến các mô bên trong cơ thể qua dây thần kinh ngoại vi. Hầu hết virus được tìm thấy trong mô thần kinh, tuyến nước bọt, nước bọt và dịch não tủy (CSF), tất cả đều phải được xử lý hết sức thận trọng.
Một số vi rút cũng đã được phát hiện trong các mô khác và các cơ quan, bao gồm phổi, tuyến thượng thận, thận, bàng quang, tim, buồng trứng, tinh hoàn, tuyến tiền liệt, tuyến tụy, đường ruột, giác mạc, tế bào mầm của nang lông trong da, tuyến bã nhờn, nhú lưỡi và mỡ nâu của dơi.
Cấy ghép nội tạng cũng đặt ra rủi ro lây nhiễm tuy rất hiếm, nếu người hiến tặng không được biết là đã bị nhiễm bệnh dại. Máu, nước tiểu và phân không được coi là nguồn lây nhiễm; tuy nhiên, một số nghiên cứu đã gợi ý rằng viremia có thể xảy ra tại một số thời điểm trong quá trình nhiễm trùng.
Mời bạn tham khảo bài viết: Thuốc trị ve chó và cách trị ve chó
Quá trình truyền virus bệnh dại trên cơ thể người
2. Chu kỳ dịch tễ học
Bệnh dại được duy trì theo hai chu kỳ dịch tễ, một là chu kỳ do đô thị hoá và một là chu kỳ cộng sinh. Trong chu kỳ bệnh dại do đô thị hoá, chó là vật chủ chứa dịch bệnh chính. Dịch tễ học của chu kỳ này rất phức tạp; các yếu tố ảnh hưởng đến nó bao gồm chủng virus, hành vi của loài vật chủ, sinh thái và các yếu tố môi trường. Trong bất kỳ hệ sinh thái nào, thường một và đôi khi có đến 3 loài động vật hoang dã chịu trách nhiệm duy trì một chủng bệnh dại cụ thể.
IV. Khử trùng diệt virus Dại ở chó mèo
– Virus dại có thể bị bất hoạt bởi dung môi lipid (dung dịch xà phòng, ete, chloroform, acetone), 1% natri hypoclorit, 2% glutaraldehyde, 45-75% etanol, các chế phẩm iot, hợp chất amoni bậc bốn, formaldehyde hoặc độ pH thấp.
– Virus này cũng nhạy cảm với bức xạ tia cực tím hoặc nhiệt độ 1 giờ ở 50°C. Nó nhanh chóng bị bất hoạt dưới ánh sáng mặt trời, và nó không tồn tại trong thời gian dài trong môi trường ngoại trừ trong vùng tối mát mẻ.
Nội dung liên quan: Đỡ đẻ cho chó – Đỡ đẻ cho mèo
V. Nhiễm trùng bệnh Dại ở người
1. Thời gian ủ bệnh
Ở người, thời gian ủ bệnh từ vài ngày đến vài năm. Hầu hết các trường hợp trở nên rõ ràng sau 1 đến 3 tháng. Trong một nghiên cứu, khoảng 4-10% trường hợp có thời gian ủ bệnh từ 6 tháng trở lên.
2. Dấu hiệu lâm sàng
Các triệu chứng ban đầu có thể bao gồm các dấu hiệu không đặc hiệu như khó chịu, sốt hoặc nhức đầu, đau, ngứa hoặc thay đổi cảm giác tại vị trí virus xâm nhập.
Sốt là một trong những biểu hiện của người mắc bệnh dại
Sau vài ngày, xuất hiện dấu hiệu lo lắng, lú lẫn và kích động, và tiến triển thành mất ngủ, hành vi bất thường, quá mẫn cảm với ánh sáng và âm thanh, mê sảng, ảo giác, tê liệt nhẹ hoặc một phần, chảy dãi, khó nuốt, co thắt hầu họng khi tiếp xúc với chất lỏng và co giật. Có thể là dạng rối loạn não (tức giận) với khả năng hưng phấn, rối loạn chức năng tự chủ và chứng sợ nước, hoặc dạng liệt (câm) đặc trưng bởi liệt toàn thân chiếm ưu thế. Tử vong thường xảy ra trong vòng 2 đến 10 ngày; sự sống sót là cực kỳ hiếm.
3. Khả năng truyền lây sang người khác
Nước bọt của người có chứa virus Dại. Sự lây truyền từ người sang người về mặt lý thuyết là có thể xảy ra nhưng hiếm. Các hoạt động có thể gây nguy cơ phơi nhiễm bao gồm cắn, hôn hoặc tiếp xúc trực tiếp khác giữa nước bọt và màng nhầy hoặc da bị rạn, hoạt động tình dục và dùng chung dụng cụ ăn uống hoặc thuốc lá. Người ta không biết con người có thể loại bỏ vi rút trong bao lâu trước khi trở thành triệu chứng; Hội y khoa quốc tế khuyến nghị điều trị dự phòng sau phơi nhiễm cho bất kỳ ai có nguy cơ tiếp xúc với một người trong 14 ngày trước khi bắt đầu các dấu hiệu lâm sàng.
Hội y khoa quốc tế cũng khuyến nghị điều trị dự phòng sau chấn thương do kim đâm hoặc vật sắc nhọn khác trong quá trình khám nghiệm tử thi hoặc trong quá trình chăm sóc bệnh nhân, do có khả năng dị vật đã đi qua mô thần kinh. Phân, máu, nước tiểu và các chất dịch cơ thể khác thì an toàn hơn.
Một vài trường hợp lây truyền đã được báo cáo trong các ca ghép giác mạc hoặc cấy ghép các cơ quan nội tạng.
Nội dung liên quan: Đỡ đẻ cho chó – Đỡ đẻ cho mèo
VI. Xét nghiệm chẩn đoán bệnh Dại ở chó mèo
Thường cần nhiều hơn một xét nghiệm để chẩn đoán bệnh Dại trên cơ thể sống, vì virus không phải lúc nào cũng hiện di���n trong bất kỳ mô nào ngoài hệ thần kinh trung ương. Bệnh dại thường không thể phát hiện được trong thời kỳ ủ bệnh, và việc nhiễm mầm bệnh cũng có thể khó chẩn đoán khi các dấu hiệu lâm sàng đầu tiên mới xuất hiện. Trong một số trường hợp, không thể phân lập được virus Dại ngay cả khi các kháng nguyên hoặc axit nucleic được phát hiện bằng các phương pháp khác.
Chẩn đoán với mẫu trên cơ thể còn sống có thể bao gồm:
– Phát hiện kháng nguyên hoặc axit nucleic
– Phân lập vi rút hoặc xét nghiệm huyết thanh
– RT PCR hoặc miễn dịch huỳnh quang có thể phát hiện axit nucleic hoặc kháng nguyên của virus trong nước bọt, hoặc trong sinh thiết da lấy từ gáy.
– Ở da, virus xuất hiện ở các dây thần kinh da ở gốc nang lông.
– Vi rút dại đôi khi được tìm thấy trong giác mạc hoặc dịch rửa mắt
– RT-PCR đôi khi có thể phát hiện axit nucleic trong dịch não tủy.
– Phân lập vi rút rất hữu ích trong chẩn đoán trước hoặc sau giết mổ. Virus dại đôi khi có thể được phân lập từ nước bọt, kết mạc, dịch tiết / nước mắt, ấn tượng giác mạc, sinh thiết da hoặc (ít thường xuyên hơn) dịch não tủy ở bệnh nhân sống, và từ não khi khám nghiệm tử thi.
– Tế bào u nguyên bào thần kinh (MNA) của chuột và các dòng tế bào khác có thể được sử dụng để phục hồi vi rút.
VII. Phương pháp điều trị bệnh Dại ở chó mèo
– Điều trị dự phòng phơi nhiễm độc tố bao gồm làm sạch và khử trùng vết thương ngay lập tức, sau đó là tiêm phòng bệnh dại và sử dụng globulin miễn dịch phòng bệnh dại ở người. Thuốc chủng ngừa bệnh dại được tiêm 5 liều và nó thường được tiêm bắp ở cánh tay.
Khi bị động vật cắn cần sát trùng vết thương ngay lập tức
– Dự phòng phơi nhiễm có hiệu quả cao nếu bắt đầu ngay sau khi phơi nhiễm. Không có phương pháp điều trị hiệu quả một khi các triệu chứng phát triển. Trước đây đã thử dùng Vacxin, thuốc kháng Virus như ribavirin, interferon-alpha, kháng thể virus chống bệnh dại (globulin miễn dịch ở người hoặc kháng thể đơn dòng), ketamine và / hoặc gây hôn mê, nhưng thường không hiệu quả.
– Việc điều trị thường mang tính giảm nhẹ và có khả năng rất cao là kết quả không thành công. Một bệnh nhân hồi phục tốt được điều trị bằng ribavirin và chăm sóc hỗ trợ bao gồm khởi phát cơn hôn mê trị liệu. Nếu điều trị thành công trong việc duy trì sự sống, có thể có các khuyết tật thần kinh vĩnh viễn và có thể nghiêm trọng.
Nội dung liên quan: Mèo bị rối loạn tiêu hóa
VIII. Phòng ngừa bệnh Dại đối với người và động vật
– Động vật nuôi (đặc biệt là chó, mèo và chồn hương) nên được tiêm phòng để tránh bị nhiễm bệnh và truyền bệnh dại cho người. Động vật đi lạc cũng nên được kiểm soát. Đặc biệt, chó đóng vai trò là ổ chứa cho một biến thể của vi rút dại ở chó. Mèo rất dễ bị nhiễm bệnh dại, nhưng một biến thể đặc hiệu của mèo không xảy ra trong quần thể mèo.
– Động vật hoang dã hoạt động bất thường cần đặc biệt tránh. Tránh tiếp xúc với Dơi. Ở một số vùng, động vật hoang dã được tiêm phòng bằng đường uống, sử dụng thuốc phòng dạng trộn vào thức ăn.
– Bác sĩ thú y và nhân viên kiểm soát động vật nên xử lý những động vật có khả năng mắc bệnh dại một cách hết sức thận trọng. Nên mặc quần áo bảo hộ như găng tay cao su dày, kính che mắt và tạp dề bằng nhựa hoặc cao su khi khám nghiệm tử thi hoặc trong các trường hợp khác khi có thể tiếp xúc với các mô nhiễm trùng.
– Các vết cắn hoặc các vết tiếp xúc khác phải được báo cáo ngay lập tức. Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm bao gồm làm sạch và khử trùng vết thương ngay lập tức, tiêm phòng bệnh dại và sử dụng globulin miễn dịch phòng bệnh dại ở người.
– Những con chó, mèo cho dù không có triệu chứng nhưng đã cắn người thì phải được quan sát trong 10 ngày; nếu con vật phát triển các triệu chứng của bệnh dại trong thời gian này, nó sẽ được xét nghiệm bệnh dại.
– Những người đã được tiêm chủng vẫn phải được điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, nhưng việc tiêm chủng loại bỏ yêu cầu về globulin miễn dịch bệnh dại và giảm số lần tiêm chủng sau phơi nhiễm. Nó cũng có thể cung cấp một số biện pháp bảo vệ cho những người bị phơi nhiễm không rõ ràng, hoặc tăng cường khả năng miễn dịch nếu việc điều trị dự phòng sau phơi nhiễm bị trì hoãn.
Tiêm Vacxin là cách duy nhất để phòng chống bệnh dại
Trên đây là thông tin cơ bản về bệnh dại trên chó mèo. Ở phần tiếp theo, PetHealth sẽ cùng các bạn tìm hiểu thêm về bệnh dại trên động vật. Hãy cùng theo dõi nhé!
> Xem thêm các chương trình khuyến mãi tại Bệnh Viện Thú Y PetHealth